Tương lai tươi sáng cho điện toán đám mây tại Việt Nam
Thị trường điện toán đám mây tại Việt Nam đang phát triển nhanh chóng. Theo báo cáo của Microsoft và Đại học Quốc gia Singapore công bố năm 2017, trong số các nước ASEAN, Việt Nam có tốc độ tăng chi tiêu trên nền tảng đám mây cao nhất với tốc độ CAGR là 64,4% trong giai đoạn 2010 – 2016, so với mức trung bình 49% của khu vực ASEAN.
Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều cơ hội để thúc đẩy việc áp dụng điện toán đám mây. Chi tiêu bình quân đầu người cho điện toán đám mây của Việt Nam vẫn ở mức thấp, chỉ khoảng 1,7 USD vào năm 2016, thấp hơn Singapore 100 lần, thấp hơn lần lượt 6,5 lần và 2,4 lần so với Malaysia và Thái Lan.
Có một khoảng cách lớn giữa chi tiêu bình quân đầu người cho điện toán đám mây ở Việt Nam và các nước ASEAN cho thấy tiềm năng to lớn của thị trường chưa được khai thác cho các nhà cung cấp dịch vụ điện toán đám mây.
BMI Research đã định giá thị trường điện toán đám mây của Việt Nam là 160,2 triệu USD vào năm 2016 và dự báo sẽ tăng trưởng CAGR là 40% từ năm 2016 đến năm 2019.
Khảo sát mới nhất về ứng dụng điện toán đám mây tại Việt Nam năm 2017 do Trường Chính sách công Lee Kwan Yew thực hiện cho thấy, 56% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng điện toán đám mây trong 4 tháng đầu năm 2017. Bên cạnh đó, 55% các cơ quan Nhà nước. đã sử dụng điện toán đám mây, bao gồm 62% ở cấp trung ương và 45% ở cấp địa phương.
Việt Nam xếp cuối trong Cloud Readiness Index (CRI) của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, An ninh mạng và Quyền riêng tư là hai điểm yếu lớn nhất
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về phát triển cơ sở hạ tầng Công nghệ Thông tin & Truyền thông (ICT) và sử dụng CNTT-TT, Việt Nam vẫn còn chậm trong quá trình chuyển đổi số và đối mặt với nhiều thách thức trong việc thúc đẩy việc áp dụng điện toán đám mây trong các tổ chức và lĩnh vực.
Cloud Readiness Index (CRI) do Hiệp hội Điện toán Đám mây Châu Á (ACCA) biên soạn cho các nước Châu Á – Thái Bình Dương đã xếp Việt Nam ở vị trí cuối cùng trong 14 nước.
CRI 2018 đã nhấn mạnh những điểm yếu chính của Việt Nam trong các vấn đề an ninh mạng và quyền riêng tư. Các thông số này đều xếp hạng thấp nhất (tức là hạng 14) trong số các quốc gia APAC và chứng kiến điểm số giảm trong báo cáo CRI từ năm 2016 đến năm 2018.
Điểm số An ninh mạng giảm do chỉ số An ninh mạng toàn cầu (GCI) 2017 của Việt Nam giảm so với năm 2014. Bên cạnh đó, yếu tố Quyền riêng tư giảm điểm do đánh giá thấp hơn về các vấn đề yêu cầu đăng ký đối với bộ kiểm soát dữ liệu và xuyên biên giới chuyển giao, có thể bị ảnh hưởng bởi dự thảo Luật An ninh mạng.
Hai thông số khác vẫn xếp hạng thấp thứ hai từ năm 2016 đến 2018 và Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quyền tự do thông tin. Đặc biệt, Việt Nam có điểm thấp nhất trong yếu tố “Tự do thông tin”, dựa trên báo cáo quốc tế “Tự do trên mạng”, đánh giá các vấn đề trở ngại tiếp cận thông tin, giới hạn về nội dung và vi phạm quyền của người dùng.
Thực tế này đã chỉ ra rằng Chính phủ và các bên liên quan phải giải quyết vấn đề an ninh mạng và tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ, quyền riêng tư và tự do thông tin để đẩy nhanh việc áp dụng điện toán đám mây, cũng như thị trường dịch vụ CNTT nói chung.
Luật An ninh mạng có thể có tác động đáng kể đến các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến có khách hàng tại Việt Nam
Chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, Luật An ninh mạng Việt Nam đã khiến nhiều công ty công nghệ và phi công nghệ lên tiếng lo ngại Luật, đặc biệt là các quy định về bản địa hóa dữ liệu, có thể mâu thuẫn với các cam kết quốc tế của Việt Nam.
“Điều 26. 3. Nhà cung cấp dịch vụ trong nước và nước ngoài trên mạng viễn thông, mạng Internet và các dịch vụ giá trị gia tăng khác trên không gian mạng tại Việt Nam nhà cung cấp dịch vụ không gian mạng thực hiện hoạt động thu thập, khai thác, sử dụng, phân tích và xử lý dữ liệu được thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ và dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu đó tại Việt Nam trong thời hạn cụ thể do Chính phủ quy định.
Doanh nghiệp nước ngoài quy định tại khoản này phải có chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam. “
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) gần đây mà Việt Nam là Quốc gia Thành viên, có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018, yêu cầu tất cả các Quốc gia Thành viên cho phép chuyển thông tin xuyên biên giới bằng phương tiện điện tử, và không về nguyên tắc, yêu cầu bản địa hóa các phương tiện tính toán theo Điều 14.11 và 14.13, là đi ngược lại quy tắc bản địa hóa dữ liệu của Luật An ninh mạng. Tuy nhiên, điều này có thể không gây hậu quả cho Việt Nam trong ngắn hạn, do Hiệp định cho phép Việt Nam lùi thời hạn 2 năm, và Việt Nam đã ký các hiệp định song phương với các thành viên của CPTPP gồm Nhật Bản, Malaysia, Newzealand và Australia về khả năng vi phạm nghĩa vụ tại Điều 14.13 và 14.11 trong thời hạn 5 năm sau ngày Hiệp định này có hiệu lực đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, mối quan tâm của các nhà cung cấp dịch vụ là về tính khả thi và chi phí để các công ty công nghệ nước ngoài lắp đặt hệ thống lưu trữ và sự hiện diện tại Việt Nam. Điều này có thể không ảnh hưởng nhiều đến các công ty điện toán đám mây quốc tế khổng lồ đã tham gia thị trường như Amazon, Microsoft, IBM, Google vì họ có thể sẵn sàng đầu tư thêm để tuân thủ pháp luật Việt Nam; nhưng nhiều công ty nhỏ hơn có thể sẽ xem xét lại chi phí đầu tư và do đó sẽ vẫn gây tổn hại đến thị trường nói chung và làm giảm lựa chọn của người dùng Việt Nam.
Mặt khác, điều này cũng tạo ra lợi thế cho các công ty điện toán đám mây trong nước tại Việt Nam. Số lượng nhà cung cấp dịch vụ đám mây tại Việt Nam không nhiều. Họ cũng là đối tác của các nhà cung cấp điện toán đám mây lớn của nước ngoài để nắm bắt cơ hội thị trường.
Tiềm năng điện toán đám mây tại Việt Nam 2021
Năm 2021, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đi kèm với những ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành điện toán đám mây đáng kể. Theo thống kê mới nhất, có tới 67% doanh nghiệp tại Việt Nam đã chuyển sang nền tảng điện toán đám mây thay vì những hệ thống server vật lý truyền thống, tốn kém. Những kết quả của việc chuyển đổi này đều khả quan cho sự phát triển ổn định của doanh nghiệp trong nền kinh tế ảnh hưởng dịch bệnh. Những kết quả này cũng là tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của điện toán đám mây trong tương lai. Đang đang được xem là một ngành mũi nhọn, khả năng phát triển tốt của Việt Nam những năm tiếp theo.
Vậy năm 2021 rồi, doanh nghiệp của bạn đã “lên mây” chưa? Hãy cùng tìm hiểu thêm nhiều điều thú vị và kiến thức bổ ích về điện toán đám mây và công nghệ tại Blog của Osam nhé!